Trúc Lâm danh sư (Trúc Lâm ra khỏi núi) là một bức tranh được vẽ vào cuối thế kỷ 14, miêu tả sự kiện Phật hoàng Trần Nantong nhập đạo. Monk, và trở về từ Vu Cave Lam, King of Telan. An Đông và các quan chào hỏi. Bức tranh này do Trần Giám Như sáng tác năm 1336, sau đó các danh họa nổi tiếng đời Minh đã thêm lời bình và tôn vinh.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng họa sĩ của bức tranh này là người Việt Nam. Nan vì căn cứ vào sự kiện năm 1420, Trần Quang Chí (Trần Quảng Chí) trong Việt ngữ thời nhà Minh đã viết lời đóng cửa bức tranh và tiếp tục mang bức tranh về Bắc Kinh, nhờ hai quan ký tên và thu dọn hậu sự. Học viện thời nhà Minh —— Năm 1922, Hoàng đế Pu Yi đã bắt cóc và bảo quản bức tranh “Lin Guorong bậc thầy của bức tranh” cho đến năm 1949 và giữ nó trong Bảo tàng Liêu Ninh của Trung Quốc. Quốc gia. Ở Việt Nam, hình ảnh trong ảnh này thường rất nhỏ hoặc chỉ là một phần của ảnh. Nhà nghiên cứu Ruan Guangde đã liên hệ với Bảo tàng Liêu Ninh, Trung Quốc theo tỷ lệ 1: 1 và tái phát hành phiên bản gốc của “Bức tranh Linda Dai” được trưng bày tại Manzi. Bức tranh quý giá này.
“Bức tranh của Xe tải Lin Dyce” là bức tranh lăn được sản xuất trên thực tế, dài 31m và rộng 0,4m, được chia thành hai phần. Với 82 người trên bàn và đủ chư Tăng, Nho giáo và Đạo giáo có thể thể hiện rõ ràng tư tưởng “tam giáo đồng nguyên” trong “triều đại”. Trần Nhân Tông dời núi, ngồi trên võng, xõa tóc, trán cao, lông mày dài, mắt sáng ngời, tinh anh. Ngài mặc áo có ve, hai tay đặt trên đầu gối tràng hạt, xung quanh là các nông dân trồng chè, mặc lọng, các cán bộ nhân viên, các nhà sư và các Phật tử miền Nam đi cùng. Trước mặt Phật có con hạc để chỉ đường cho mọi người.
Phía sau sư phụ là người bạn tri kỷ – đạo sĩ Lâm Thời Vũ. Người họ Hồ đầu trọc, râu ria xồm xoàm, tay cầm một cây trượng, thậm chí là một đại sư, do thị lực kém nên bị bắt đi qua cầu đá, cầu bị nổ tung, trên mắt cá chân lộ ra một chiếc nhẫn đựng tiền. Ấn Độ.
Cuối đoàn là một con voi trắng được trang trí đẹp mắt với những lời cầu nguyện trên đó. Con voi này được buộc bằng những hạt nhỏ bằng hoa cúc, hoa cúc trên ngà, hoa sen cách điệu buộc trên đỉnh đầu, thám hoa Ba Tư trên lưng voi. Đoạn này có nền mây và núi xa xa, là ánh đồng lấp lánh của sông Ngô, hoa lau trắng, thông già, ngô đồng trôi sông.
Trên tầng hai có cảnh cận thần nghênh đón đại vương. Thượng hoàng Trần Anh Tông (Trần Anh Tông) dáng người uy nghiêm, vẻ mặt nghiêm nghị, đầu đội khăn đóng, áo sơ mi cộc tay, quần tây và đi ủng. Quân cấm vệ cầm kiếm bảo vệ, có quan cao to cầm kiếm bảo vệ. Thượng Quan mặc áo gấm tím, tay dang, đội nón có chấm lục lăng, lưng cong.
Những người lính mang theo một chiếc ghế sedan, một chiếc dù che nắng và một con voi ngựa, kinh ngạc trước khi Đức Phật rời đi. Những bức vẽ chi tiết về long bào có giá trị lịch sử của Diêm Tử là nguồn tư liệu quý cho lễ đón nhà Trần. Tại đây, bộ ghế sa lông ba tầng tựa trên ngai chạm hình rồng và mây thời Trần, ngai có hình chiếc lá. Võ sĩ đội mũ lưỡi trai đội lục giác, quân lính giữ chùy, vuốt, chỉ đứng hầu hạ. Bản gốc xuất hiện. Tuy nhiên, việc giới thiệu phiên bản đầy đủ của “Họa sĩ lừng danh Lin Zixiang” là cơ hội hiếm có để công chúng thưởng lãm tranh. Bức tranh này không chỉ là một kiệt tác hội họa mà còn có giá trị lịch sử to lớn. Từ bức ảnh này, các nhà nghiên cứu có thêm bằng chứng để khẳng định nhiều vấn đề như trang phục, tôn giáo, nghi thức cung đình, phong cảnh … để từ đó xác định được cha ông trong câu chuyện. Thật là một nền văn hóa huy hoàng.